Bảo tồn di sản gắn với phát triển du lịch bền vững
Quần thể di tích danh thắng Yên Tử – Vĩnh Nghiêm – Côn Sơn, Kiếp Bạc được đánh giá là sự kết tinh hài hòa giữa các yếu tố văn hóa, triết học và tôn giáo, phản ánh sinh động tinh thần Phật giáo, đại thừa tư tưởng Nho giáo, Đạo giáo và các tín ngưỡng bản địa Việt Nam. Chính sự giao thoa độc đáo này đã tạo nên nền tảng cho sự phát triển rực rỡ của văn hóa Đại Việt vào thế kỷ thứ XIII, một nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, đồng thời có khả năng dung hòa, thích ứng và phát triển bền vững trong lòng nhân loại.
Những giá trị đó hôm nay vẫn đang tiếp tục gìn giữ, phát huy và sống cùng với hơi thở của thời đại. Đó chính là minh chứng sống động cho tầm vóc, ý nghĩa lâu dài của một di sản thực sự phù hợp với các tiêu chí cốt lõi của UNESCO về hòa bình. Phóng viên Báo và Phát thanh, Truyền hình Quảng Ninh đã có cuộc trò chuyện với PGS. TS Đặng Văn Bài, Phó Chủ tịch Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia, về nội dung này.

– Thưa Phó Giáo sư, là người tham gia nghiên cứu và phản biện hồ sơ ngay từ đầu, ông có chia sẻ gì về quá trình hoàn thiện hồ sơ Quần thể di tích danh thắng Yên Tử – Vĩnh Nghiêm – Côn Sơn, Kiếp Bạc?
+ Tôi cũng rất may mắn, từ năm 2014-2017 là đại diện của Việt Nam tham gia xét duyệt, bỏ phiếu các di sản thế giới của các nước khác, nên hiểu được những quy trình, diễn biến thảo luận cũng như bỏ phiếu như thế nào. Đây là lần đầu tiên chúng ta đã làm một hồ sơ có tính chất liên tỉnh, liên vùng, tại một khu vực bảo vệ rất rộng lớn. Chính xác, đó là loại chuỗi di sản, không phải là một khu liên hoàn mà tách biệt nhau, cách xa hàng chục cây số, cũng là một dạng di sản hiếm có trên thế giới.
Điểm nữa, giá trị nổi bật toàn cầu về mặt lý thuyết là có thể nói thế nào cũng được. Nhưng mà yêu cầu của UNESCO lại phải chứng minh được tính chân xác của nó. Thế nhưng đặc thù di sản mà chúng ta đang sở hữu từ thời Trần đến bây giờ trải qua chiến tranh, điều kiện khí hậu nhiều di tích đang tồn tại dưới dạng phế tích, kiến trúc mang tính chất khảo cổ thì phương pháp tiếp cận với nó chắc chắn là phải nghiên cứu khai quật khảo cổ học. Có nhiều di tích phải lấp đi và cũng có nhiều di tích ấy chúng ta giữ dưới dạng mở và lại phục hồi ở bên cạnh. Kinh nghiệm được rút ra cho chúng ta là khi nghiên cứu các phế tích kiến trúc mang tính chất khảo cổ thì phải làm di sản tư liệu, làm tư liệu hóa nó qua hình ảnh, qua bản vẽ và miêu tả thật kỹ. Và thứ hai là ta phải bảo vệ tại chỗ ở trong lòng đất.
Có rất nhiều dấu tích trên mặt đất cũng chứng tỏ được tính chân xác của khu danh thắng Yên Tử. Điều đó chứng tỏ là tại Quảng Ninh, Bắc Ninh, Hải Phòng, cộng đồng cũng đã nỗ lực giữ bảo vệ và phát huy giá trị di sản. Khả năng bảo vệ lâu dài tức là giữ được cái tính toàn vẹn của nó, đó là điều mà UNESCO quan tâm ngoài giá trị toàn cầu, tính chân xác và tính toàn vẹn của Quần thể danh thắng Yên Tử – Vĩnh Nghiêm – Côn Sơn, Kiếp Bạc của chúng ta đã hoàn toàn đáp ứng được.
– Đó là câu chuyện cộng đồng bảo tồn di sản trước khi được vinh danh. Sau khi vinh danh thì sao thưa ông?
+ Theo tôi, quan tâm của UNESCO đối với một di sản sau khi được vinh danh là phải có một cơ quan quản lý thống nhất, đủ năng lực để bảo tồn tính toàn vẹn của di sản mà lại phải làm cho di sản ấy có sức sống mới trong đời sống xã hội, mang lại lợi ích thiết thực cả về vật chất lẫn tinh thần. Việc bảo tồn ấy phải góp phần phát triển cộng đồng, cho nên UNESCO khuyến khích cách tiếp cận cộng đồng trong bảo tồn di sản văn hóa.
Nghĩa là tạo điều kiện để người dân thực hiện được quyền bảo tồn văn hóa của mình, vậy thì phải phối hợp được cả ba tỉnh. Đấy là một vấn đề không dễ dàng với nhiều nước chứ không phải chỉ với Việt Nam. Cấp bách nhất là chúng ta có các hồ sơ phải hoàn thiện. Một là quy hoạch bảo tồn và phát huy gắn với phát triển du lịch bền vững. Hai là kế hoạch quản lý di sản ấy. Thứ ba là đánh giá tác động môi trường, những yếu tố có thể tác động làm thay đổi các yếu tố gốc của di sản. Khi đã đánh giá tác động rồi thì phải có giải pháp để hạn chế hoặc là khắc phục những cái tác động đấy.

– Về bộ máy để thực hiện việc này, theo ông sẽ được tổ chức như thế nào?
+ Chúng ta có các khu di tích Yên Tử, nhà Trần tại Đông Triều, Bạch Đằng, chùa Vĩnh Nghiêm, Côn Sơn – Kiếp Bạc… Mỗi khu di tích có một ban quản lý rồi, làm thế nào thống nhất các ban quản lý không phải là ngày một, ngày hai có thể làm được. Nhưng tôi tin là với sự quyết tâm của lãnh đạo ba tỉnh, sự đồng hành, hỗ trợ của Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch thì việc này sẽ được thực hiện tốt.
Tôi mường tượng, mỗi tỉnh phải thành lập bộ phận quản lý di sản thế giới ở tỉnh mình. Và bên trên thì sẽ có một tổ chức liên tỉnh và Chủ tịch Hội đồng ấy có lẽ phải là một Thứ trưởng Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch và 3 Phó Chủ tịch UBND tỉnh phụ trách văn xã của ba tỉnh và các nhà khoa học có liên quan.

– Việc ứng dụng chuyển đổi số được coi là xu thế tất yếu và là động lực để phát triển kinh tế di sản. Ông nghĩ sao về quan điểm này?
+ Tôi nghĩ rằng chúng ta phải nghiên cứu kỹ xu hướng mà UNESCO đang khuyến khích là phương pháp tiếp cận cộng đồng trong bảo tồn di sản văn hóa thế giới. Nghĩa là di sản văn hóa, bảo vệ tại cộng đồng, trong cộng đồng, dựa vào cộng đồng, vì cộng đồng, cho cộng đồng. Đầu tiên chúng ta phải giáo dục di sản để nâng cao nhận thức của cộng đồng.
Trong việc giáo dục để nâng cao nhận thức cộng đồng, tôi cho rằng, xây dựng những chương trình giáo dục di sản, đặc biệt là chương trình giáo dục di sản cho học sinh các trường học. Theo tôi biết, cả ba tỉnh hoặc nhiều hoặc ít đều có chương trình giáo dục để đưa di sản vào các trường phổ thông. Thêm nữa, chúng ta phải phối hợp, tận dụng được sức mạnh của truyền thông, báo chí để thông qua các kênh truyền thông ấy làm cho di sản văn hóa đến thường xuyên với cộng đồng.

Tóm lại, để làm được cái việc ấy, mấu chốt ba tỉnh phải hợp lực để xây dựng cơ sở dữ liệu về di sản thế giới. Đấy là cơ sở dữ liệu chung, cơ sở dữ liệu về di sản văn hóa nhưng lại trên nền tảng công nghệ số. Đó là nguyên liệu để áp dụng công nghệ mới tạo thành những sản phẩm du lịch hấp dẫn. Tôi xin nhắc lại bản thân di sản chưa phải là sản phẩm du lịch. Nó chỉ trở thành sản phẩm du lịch khi có cộng lực các dịch vụ của ngành du lịch thì mới trở thành sản phẩm, hàng hóa bán được cho nhiều người, bán được nhiều lần.
Tôi nghĩ, đổi mới sáng tạo trong thời kỳ chuyển đổi số trong phát triển công nghiệp văn hóa đúng là cần thiết cho cả ba tỉnh. Tôi rất mong, song song với việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch quản lý thì chúng ta nên có một đề án phối hợp xây dựng cơ sở dữ liệu về di sản văn hóa thế giới trên nền tảng công nghệ số. Cái đó cho phép chúng ta sáng tạo ra nhiều hình thức.
Quảng Ninh đi đầu trong mô hình hợp tác công tư trong bảo tồn, phát triển di sản văn hóa mà Công ty CP Phát triển Tùng Lâm là một ví dụ điển hình. Trong quá trình xây dựng hồ sơ này, họ có đóng góp rất lớn và chính họ cũng tạo ra sức sống cho di sản rồi. Ở Bắc Ninh, rồi ở Hải Phòng cũng đã có mô hình hợp tác công tư. Chúng ta sẽ góp phần phát huy được các nguồn lực xã hội, phát triển công nghiệp văn hóa trên cơ sở bảo tồn di sản gắn với phát triển du lịch bền vững.
– Cảm ơn ông về cuộc trò chuyện này!
Phạm Học (Thực hiện)
Halong Bay Luxury Cruises, Best Halong Bay Luxury Cruises , Du thuyền sang trọng trên Vịnh Hạ Long





